Aspidontus dussumieri
Aspidontus dussumieri | |
---|---|
Tình trạng bảo tồn | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Actinopterygii |
Bộ (ordo) | Blenniiformes |
Họ (familia) | Blenniidae |
Chi (genus) | Aspidontus |
Loài (species) | A. dussumieri |
Danh pháp hai phần | |
Aspidontus dussumieri (Valenciennes, 1836) | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
Aspidontus dussumieri là một loài cá biển thuộc chi Aspidontus trong Họ Cá mào gà. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1836.
Từ nguyên
[sửa | sửa mã nguồn]Danh pháp của loài cá này được đặt theo tên của Jean-Jacques Dussumier, một thương gia người Pháp rất thích du hành bằng đường biển, cũng là người đã thu thập mẫu vật của loài này[2].
Phạm vi phân bố và môi trường sống
[sửa | sửa mã nguồn]A. dussumieri có phạm vi phân bố rộng khắp Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Từ Biển Đỏ, loài cá này đã được ghi nhận dọc theo vùng bờ biển Đông Phi, bao gồm Madagascar và các đảo quốc, bãi ngầm xung quanh; từ vùng biển ngoài khơi cực nam Ấn Độ, phạm vi của A. dussumieri trải dài về phía nam đến Sri Lanka, Maldives, quần đảo Chagos, quần đảo Cocos (Keeling), và dọc theo vùng bờ biển của bang Tây Úc; ở phạm vi phía đông, từ biển Andaman, A. dussumieri xuất hiện trải dài trên khắp vùng biển các nước Đông Nam Á, mở rộng phạm vi về phía đông đến hầu hết các đảo quốc, quần đảo thuộc châu Đại Dương (xa nhất ở phía đông là đến Tuamotu); phía bắc trải dài đến đảo Đài Loan và vùng biển phía nam Nhật Bản; phía nam giới hạn đến bờ biển phía đông Úc (từ bang Queensland đến bang New South Wales)[1].
A. dussumieri sống gần các rạn san hô viền bờ ở độ sâu đến 20 m[3].
Mô tả
[sửa | sửa mã nguồn]Chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận ở A. dussumieri là 12 cm[3]. Loài này có thân mảnh, thuôn dài với mõm nhọn[4]. Khác với loài họ hàng duy nhất của nó, Aspidontus taeniatus, A. dussumieri có miệng nằm gần ngay đỉnh mõm, trong khi A. taeniatus có miệng nằm bên dưới mõm[3]. Một dải sọc đen từ mõm băng qua mắt, chạy dài đến vây đuôi; sát bên dưới dải đen này là một dải sọc trắng. Vây lưng và vây hậu môn màu vàng lục, hơi sẫm nâu với viền đen ở rìa[4]. Ngoài ra, quần thể của A. dussumieri ở Indonesia lại có thêm các tia vây rất dài, màu vàng ở vây đuôi[3].
Số gai ở vây lưng: 9 - 11; Số tia vây ở vây lưng: 28 - 34; Số gai ở vây hậu môn: 2; Số tia vây ở vây hậu môn: 25 - 30[3].
Sinh thái
[sửa | sửa mã nguồn]A. dussumieri khá nhát[1]. Chúng nhanh chóng rút vào nơi trú ẩn của nó nếu gặp nguy hiểm, thường là khoang của những loài sâu ống[1].
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b c d J. T. Williams (2014). “Aspidontus dussumieri”. Sách đỏ IUCN. 2014: e.T48342525A48371246. doi:10.2305/IUCN.UK.2014-3.RLTS.T48342525A48371246.en. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2021.
- ^ C. Scharpf; K. J. Lazara (2020). “Order BLENNIIFORMES: Family BLENNIIDAE”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2021.
- ^ a b c d e Froese Rainer, và Daniel Pauly (chủ biên) (2019). Aspidontus dussumieri trong FishBase. Phiên bản tháng 2 2019.
- ^ a b “Aspidontus dussumieri Blenniidae”. Reef Life Survey. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2021.
- Loài ít quan tâm theo Sách đỏ IUCN
- Aspidontus
- Cá Ấn Độ Dương
- Cá Thái Bình Dương
- Cá biển Đỏ
- Cá Somalia
- Cá Kenya
- Cá Tanzania
- Cá Mozambique
- Cá Nam Phi
- Cá Madagascar
- Cá Ấn Độ
- Cá Sri Lanka
- Cá Maldives
- Cá Myanmar
- Cá Thái Lan
- Cá Việt Nam
- Cá Malaysia
- Cá Indonesia
- Cá Philippines
- Cá Đài Loan
- Cá Nhật Bản
- Cá Papua New Guinea
- Cá Úc
- Cá châu Đại Dương
- Cá Palau
- Cá Tonga
- Cá Fiji
- Cá Nouvelle-Calédonie
- Động vật được mô tả năm 1836